Ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam

Ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam

Ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển. Chính phủ đã thành lập Chương trình Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (NMHP); tuy nhiên, các nhà quan sát trong ngành đã lưu ý rằng NMHP chỉ bao phủ khoảng 30 phần trăm cả nước và sử dụng một danh sách rất hẹp về bệnh tâm thần.

Trong khi chính phủ ước tính rằng khoảng 15 phần trăm dân số yêu cầu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, nghiên cứu độc lập cho thấy rằng con số này gần hơn với mức 20 đến 30 phần trăm dân số. Đây là một khoảng trống lớn về dịch vụ cho các tổ chức phi chính phủ và các doanh nghiệp nước ngoài.

Các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các doanh nghiệp nước ngoài muốn bù đắp khoảng trống dịch vụ này và góp phần vào hệ thống chăm sóc sức khỏe, cần có một cách tiếp cận phức tạp khi tiến vào quốc gia này. Điều đó bắt đầu từ việc tìm hiểu những rào cản đã ngăn trở sự phát triển năng lực của hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần hiện có tại Việt Nam.

Bối cảnh chăm sóc sức khỏe tâm thần

Tại nước này, rối loạn tâm thần đôi khi bị gắn chặt với nỗi hổ thẹn và mất danh dự, điều này có thể ngăn cản các cá nhân công khai nói về nỗi đau khổ của họ. Ví dụ, “bác sĩ tâm thần” là từ tiếng Việt cho thuật ngữ “psychiatrist”; tuy nhiên, nó lại được dịch trực tiếp sang tiếng Anh thành “bác sĩ chữa bệnh điên”. Những tham chiếu này gắn liền với sự kỳ thị văn hóa, ngụ ý rằng những người tìm kiếm sự hỗ trợ tâm lý đang chạy chữa những hành vi xấu xa của họ.

Duy trì sự điềm tĩnh xã hội bằng cách không thảo luận công khai về các vấn đề — như lo lắng hoặc căng thẳng trong công việc — là điều khá phổ biến. Tuy nhiên, gánh nặng tâm lý có ảnh hưởng rộng rãi đến các cá nhân gặp sự cố, bao gồm cả các thành viên trong gia đình họ.

Nhìn từ bên ngoài, phát triển ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần có thể không thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ngay lập tức vì nó đòi hỏi, một mặt là việc tạo điều kiện thuận lợi cho một thị trường ngách, và mặt khác, là phải làm việc trong một môi trường chi phí thấp. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của nước này phần lớn được thúc đẩy bởi lợi tức dân số và nhu cầu ngày càng tăng đối với tất cả các hình thức chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Các dịch vụ tư vấn vì lợi nhuận thông thường có thể sẽ là một thách thức đối với các nhà đầu tư trên thị trường hiện tại. Với hầu hết những người làm công việc toàn thời gian có thu nhập thấp và trung bình, họ khó có thể đánh đổi chuyện nghỉ việc để tìm kiếm sự trợ giúp tâm lý. Các yếu tố khác cần lưu ý là các yếu tố như kỳ thị xã hội và khái niệm chăm sóc sức khỏe vì lợi nhuận chưa phát triển, có thể ngăn cản nhóm khách hàng giàu có tìm kiếm dịch vụ.

Tuy nhiên, nhắm mục tiêu đến tầng lớp trung lưu đang gia tăng với các ứng dụng internet mới và dịch vụ trực tuyến với mức giá thấp có thể là một lựa chọn khả thi, trong khi các phân khúc giàu có hơn có thể sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ cao cấp hơn khi tiến trình xoay quanh sức khỏe tâm thần phát triển. Điều quan trọng cần lưu ý là nhóm nhân khẩu học của những người tiêu dùng sẵn sàng trả tiền cho dịch vụ chất lượng có thể thay đổi theo thời gian, vì chi tiêu của người tiêu dùng đang tăng lên đáng kể.

Bất kể mô hình dịch vụ nào, việc tạo ra các tùy chọn có thể tiếp cận với tính bảo mật được đặt lên hàng đầu của bất kỳ dịch vụ mới nào là điều quan trọng mà các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cần lưu ý. Tạo ra công nghệ hữu ích, chẳng hạn như các ứng dụng internet, có thể giúp những người vật lộn với áp lực xã hội gay gắt có thể nhận được hỗ trợ một cách thoải mái ngay tại nhà.

Lĩnh vực cần quan tâm

Năm 2014, Hội Tâm thần học Việt Nam đã thực hiện một nghiên cứu để xác định xem bệnh nào trong số 10 bệnh tâm thần phổ biến nhất có ảnh hưởng lớn nhất trên cả nước. Trong danh sách các bệnh tâm thần chính thức ở nước này, ba vấn đề nổi cộm nhất là lạm dụng rượu bia, trầm cảm và lo âu. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm để giải quyết những kết luận này và xác định nguyên nhân của chúng.

Ngoài ra, những người sống ở nông thôn phải đối mặt với những thách thức riêng của họ – đặc biệt là những người bị bỏ lại đằng sau bởi sự bùng nổ kinh tế của đất nước. Các khía cạnh truyền thống của đời sống gia đình bị phá hoại vì sự phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước; tương quan thế hệ của các hộ gia đình đang thay đổi khi cha mẹ chuyển đến các trung tâm đô thị để tìm việc làm, để lại con cái của họ với đại gia đình hoặc ở một mình trong thời gian dài.

Một nghiên cứu được thực hiện bởi Dự án Cuộc sống Trẻ thơ có trụ sở tại Vương quốc Anh cho thấy rằng các yếu tố gây căng thẳng liên quan đến nghèo đói ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Ở cả thành thị và nông thôn, thanh niên và phụ nữ dễ bị tổn thương không có đủ nguồn lực phù hợp với các mối quan tâm của họ. Sự chăm sóc đặc biệt thiếu thốn đối với những người sống ở các vùng nông thôn không có phương tiện đi lại đến các thành phố lớn – như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh – nơi các dịch vụ được cung cấp rộng rãi hơn. Tuy nhiên, số lượng hạn chế các chuyên gia chăm sóc sức khỏe tâm thần đang làm việc trong lĩnh vực này không thể đáp ứng nhu cầu của các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi các nguồn lực còn hạn chế.

Một nghiên cứu phối hợp giữa UNICEF, Viện Phát triển Nước ngoài (ODI) và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) đã khảo sát khu vực nông thôn của Điện Biên, phía Tây Bắc Việt Nam, và phát hiện ra rằng vào năm 2015, trong số 333 người có ý định tự sát, 140 trường hợp là người từ 19 tuổi trở xuống; 16 trong số 73 trường hợp tự sát hoàn thành là trẻ em. Đáng báo động là, cuộc khảo sát cho thấy xu hướng tự sát đang là vấn đề nhức nhối của thanh niên Việt Nam tại tỉnh này. Hoặc, có lẽ, là một vấn đề chưa bao giờ được dành nhiều sự quan tâm. 

Tuy nhiên, sự gia tăng số vụ tự tử là một mối lo ngại mới được công nhận, và cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để giải quyết các yếu tố gây ra tình trạng đau khổ cho thanh thiếu niên ở Việt Nam.

Cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe tâm thần

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khảo sát nước này vào năm 2014 và thấy rằng chỉ có 0,91 bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân. 

Bác sĩ tâm thần hiện có trên 100.000 dân ở Việt Nam tương đương với các nước láng giềng ASEAN: Malaysia có 0,76 bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân và Thái Lan có 0,87 bác sĩ tâm thần có thể tiếp cận cho 100.000 dân. Tuy nhiên, nó còn kém xa các nền kinh tế phát triển như Singapore, nơi có 3,48 bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân và Mỹ, nơi có 12,40 bác sĩ tâm thần trên 100.000 dân.

Điều này cho thấy rằng các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài rất có thể sẽ gặp phải những thách thức trong việc tuyển dụng các chuyên gia trong nước để phục vụ người dân ở Việt Nam.
Khoa Tâm thần của Trường Đại học Y Hà Nội và Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia cung cấp các chương trình đào tạo bác sĩ tâm thần. Sinh viên y đa khoa có thể chọn học chuyên ngành một năm về tâm thần học — mặc dù mức độ quan tâm của nó vẫn còn thấp so với các lĩnh vực y tế khác.

Phát triển cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe tâm thần sẽ đòi hỏi các cơ sở giáo dục nước ngoài và các chương trình đào tạo chuyên nghiệp để tăng cường năng lực và kỹ năng lâm sàng của Việt Nam. Hợp tác với các tổ chức địa phương để tăng cường chương trình giáo dục hiện có hoặc thiết lập các dịch vụ đào tạo độc lập có thể giúp cải thiện tình hình hiện tại.

Mạng lưới sức khỏe tâm thần tạo điều kiện cho các chương trình điều trị ngoại trú và nội trú để chăm sóc sức khỏe tâm thần. Hệ thống bệnh viện tâm thần tại Việt Nam gồm có 36 bệnh viện được thành lập trên cả nước. Người nằm viện mắc các tình trạng nghiêm trọng được chăm sóc tại các bệnh viện nội trú này – với số giường bệnh hiện có là 6.000.

Hệ thống cung cấp dịch vụ thông qua mạng lưới các bệnh viện quốc doanh gồm hai Bệnh viện Tâm thần Quốc gia: một ở phía Bắc tại Hà Nội, và một tại thành phố Biên Hòa ở phía Nam. 34 bệnh viện tâm thần cấp tỉnh còn lại được phân bổ trên cả nước.

Hiện tại, Việt Nam có 600 cơ sở chăm sóc sức khỏe tâm thần ngoại trú dành cho những người dân địa phương đang tìm kiếm sự chăm sóc ngắn hạn. Điều trị ngoại trú cung cấp các dịch vụ tâm lý xã hội cho những người có nhu cầu mà không cần nhập viện.

Hơn nữa, trong khi dịch vụ là sẵn có thông qua các cơ sở thuộc sở hữu nhà nước, các nghiên cứu quốc tế đều nhất trí rằng không có các cơ sở điều trị nhắm đến đối tượng trẻ em và thanh thiếu niên – nhóm nhân khẩu học mà nghiên cứu cho thấy rất dễ bị tổn thương.

Làm thế nào để chuẩn bị cho thị trường này

Sự phát triển của một ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần thành công sẽ đòi hỏi việc nghiên cứu tích cực và có tính thích ứng với khu vực, với cái nhìn trực tiếp về nhu cầu y tế đang phát triển.

Các doanh nhân muốn đầu tư vào ngành chăm sóc sức khỏe tâm thần nên tự mình làm quen với các yêu cầu từ đối tác địa phương và các quy định của ngành. Ở Việt Nam, các quy định trong lĩnh vực y tế vẫn còn nhiều giới hạn, vì vậy cần phải nhận thức được những hạn chế tồn tại, cũng như sự thiếu hụt của pháp luật cho ngành này.

Đầu tư nước ngoài lên đến 100% được phép cho các cơ sở chăm sóc sức khỏe và các đơn vị đào tạo y tế với điều kiện họ có thể đáp ứng các yêu cầu về vốn do chính phủ đặt ra. Các doanh nghiệp có ý định cung cấp dịch vụ điều trị chăm sóc sức khỏe có yêu cầu vốn tương đối cao, trong khi yêu cầu vốn đối với các nhà cung cấp dịch vụ đào tạo y tế lại dựa trên số lượng sinh viên.

Khám phá các cơ hội hợp tác công tư (PPP) và quan hệ đối tác với các tổ chức phi chính phủ địa phương có thể giúp các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường và bối cảnh hóa các phương pháp điều trị và dịch vụ quốc tế nhanh chóng hơn.

Giám đốc Tri thức Kinh doanh của Dezan Shira & Associates, Maxfield Brown cho biết, “Trở ngại chính sẽ nằm ở phía quy định – còn thuế sẽ không phải là một rào cản. Sức khỏe tâm thần đang gây tranh cãi trong nhiều xã hội và cách bạn dạy nó, hoặc tiếp cận nó, là rất quan trọng. Ngay cả khi không được quy định, nó vẫn là một vấn đề văn hóa nhạy cảm. Nhưng khi Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển, những quan điểm và luật lệ này có thể thay đổi trong khoảng thời gian 5 năm, và điều đó sẽ thay đổi cách các công ty có thể hoạt động trên thị trường ”.

(Nguồn: VIETNAM BRIEFING)

Có Thể Bạn Quan Tâm

    Mục Lục